Xoang có chức năng rất quan trọng trong cơ thể, cho nên không được chủ quan trước những dấu hiệu liên quan đến bệnh. Khi bị đau nhức, mũi tiết ra dịch nhầy bất thường hoặc không cảm nhận được mùi, tức là xoang có vấn đề.
Bệnh rất phổ biếnViêm xoang là bệnh phổ biến trong xã hội hiện đại, do hiện tượng nhiễm trùng của các xoang. Đây là tình trạng nhiễm trùng của màng niêm mạc lót trong lòng các xoang gây ra bởi vi trùng, siêu vi trùng hay dị ứng dẫn tới phù nề, thu hẹp đường kính các lỗ xoang làm cho mủ và dịch viêm ứ đọng trong xoang do không thoát được ra ngoài.

Đang xem: Biểu hiện của viêm xoang mũi

Xoang có sự liên hệ mật thiết với mũi, và mũi là nơi tiếp xúc thường xuyên của cơ thể với môi trường bên ngoài cho nên khi môi trường không tốt sẽ gây mũi và một thời gian sau xoang cũng bị viêm. Viêm xoang là bệnh rất thường gặp ở các nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Và Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ viêm xoang khá cao, vì khí hậu ẩm ướt tạo điều kiện để vi trùng, siêu vi trùng gây bệnh phát sinh, phát triển. Bệnh thường xảy ra vào lúc giao mùa, nhất là mùa xuân và thường hay gặp ở người lớn, trẻ em ít bị viêm xoang hơn. Bệnh này dễ tái phát và thường phải điều trị trong một thời gian dài.

*

Viêm xoang có 2 dạng chính là viêm xoang cấp tính và viêm xoang mạn tính. Viêm xoang cấp tính thường xảy ra ở xoang sàng, xoang trán, xoang bướm và viêm đa xoang.
Viêm xoang là một bệnh lý nhiễm trùng nên thường có những dấu hiệu như đau nhức, sốt, chảy dịch, nghẹt mũi hay điếc mũi. Tuy nhiên, việc phát hiện bệnh rất khó khăn vì những dấu hiệu đặc trưng của bệnh không rõ ràng, nhất là ở giai đoạn đầu. Những dấu hiệu đặc trưng chỉ xuất hiện khi bệnh đã vào giai đoạn nặng.

Xem thêm:

Đau nhức: Vùng xoang viêm có cảm giác đau nhức và tùy thuộc xoang bị viêm ở vùng nào thì cảm giác đau nhức sẽ xuất hiện ở vùng đó. Nếu bị viêm xoang hàm sẽ cảm thấy đau nhức ở vùng má, viêm xoang trán thì đau nhức khu vực ở giữa 2 lông mày và đau trong một khung giờ nhất định. Nếu viêm xoang sàng trước thì người bệnh sẽ cảm thấy đau nhức ở giữa 2 mắt, nếu viêm xoang sàng sau và xoang bướm sẽ cảm thấy nhức trong sâu và vùng gáy.Hiện tượng chảy dịch:Khi xoang bị viêm, thường có hiện tượng chảy dịch, dịch nhày có thể chảy ra phía mũi hoặc xuống họng tùy thuộc vào vị trí xoang bị viêm. Nếu bệnh nhân bị viêm xoang trước dịch sẽ chảy ra mũi trước, nếu bị viêm xoang sau dịch chảy xuống họng. Khi bị chảy dịch, mũi bệnh nhân luôn phải khụt khịt hay cảm thấy khó chịu ở cổ họng, muốn khạc nhổ liên tục. Tùy vào tình trạng mức độ của bệnh mà dịch sẽ có màu trắng, đục, vàng nhạt hay màu xanh, có mùi hôi cực kỳ khó chịu.Nghẹt mũi: Đây là hiện tượng đặc trưng không thể thiếu khi bị viêm xoang. Người bệnh có thể bị nghẹt 1 hay cả 2 bên, đồng thời thấy khó thở, khó chịu trong người và mệt mỏi.

Xem thêm:

Điếc mũi: Khi xoang bị viêm, nếu không được chữa trị sớm và tích cực thì bệnh sẽ trở nên nặng, nó gây phù nề nhiều, người bệnh không còn phân biệt được mùi khi ngửi do thần kinh khứu giác không còn cảm nhận được mùi.Ngoài ra, viêm xoang còn có thể có một số dấu hiệu khác như đau đầu, có thể có sốt nhẹ hay sốt cao, khi nghiêng người về phía trước sẽ có cảm giác chóng mặt hay choáng váng, đau xung quanh vùng mắt theo từng cơn và nhịp mạch đập. Đau nhức mỗi khi hắt hơi mạnh, người bệnh không thể tập trung, không muốn ăn. Nếu viêm xoang nặng có thể bị viêm thần kinh mắt dẫn tới mờ mắt.
Viêm xoang là bệnh không thể chữa bằng vài liều thuốc kháng sinh đơn giản, qua loa mà phải tuân thủ quy trình và thời gian điều trị của bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng bằng những loại thuốc đặc trị để có hiệu quả tốt nhất.Theo SKĐS online

Marvin P. Fried

, MD, Montefiore Medical Center, The University Hospital of Albert Einstein College of Medicine

Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng vùng mặt; đôi khi đau đầu, đau nhức sọ mặt, và/hoặc có sốt. Điều trị viêm mũi cấp tính do virus bao gồm khí dung mũi và thuốc co mạch tại chỗ hoặc toàn thân. Điều trị nghi ngờ nhiễm trùng do vi khuẩn là kháng sinh, như amoxicillin/clavulanate hoặc doxycycline, cho viêm xoang cấp tính từ 5 đến 7 ngày và trong 6 tuần đối với viêm xoang mạn tính. Những người nghẹt mũi, xịt mũi và sử dụng nhiệt và độ ẩm có thể giúp giảm triệu chứng và cải thiện việc dẫn lưu xoang. Viêm xoang tái phát có thể cần phẫu thuật để cải thiện dẫn lưu xoang.

Đang xem: Biểu hiện của viêm xoang mũi

Viêm xoang có thể được phân loại là cấp tính (khỏi hoàn toàn trong &lt 30 ngày); bán cấp (hồi phục trong 30 đến 90 ngày); tái phát (≥ 4 giai đoạn cấp tính riêng biệt mỗi năm, mỗi lần được giải quyết hoàn toàn &lt 30 ngày nhưng lặp lại theo chu kỳ, với ít nhất 10 ngày giữa việc giải quyết hoàn chỉnh các triệu chứng và bắt đầu một đợt mới); và mạn tính (kéo dài > 90 ngày).

Viêm xoang cấp ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch trong cộng đồng hầu như luôn luôn do virut (như rhinovirus, cúm, parainfluenza). Một tỷ lệ nhỏ phát triển nhiễm khuẩn thứ phát với Streptococci, pneumococci, Haemophilus influenzae,Moraxella catarrhalis, hay staphylococci. Đôi khi, áp xe quanh răng của răng hàm trên lan rộng đến xoang trên. Các bệnh nhiễm trùng bệnh viện cấp tính thường là do vi khuẩn, điển hình là do Staphylococcus aureus,Klebsiella pneumoniae,Pseudomonas aeruginosa,Proteus mirabilis, và Enterobacter. Những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch có thể bị viêm xoang cấp do nấm xâm nhập ( xem Viêm xoang xâm lấn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch Viêm xoang xâm lấn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng v&#249… đọc thêm

*

).

Viêm xoang mạn tính liên quan đến nhiều yếu tố kết hợp để tạo ra tình trạng viêm mạn tính. Bệnh dị ứng mạn tính, bất thường về cấu trúc (ví dụ, polps mũi), chất gây kích ứng môi trường (ví dụ ô nhiễm không khí, khói thuốc lá), rối loạn hệ thống niêm dịch lông chuyển, và các yếu tố khác tương tác với các sinh vật lây nhiễm gây ra viêm xoang mạn tính. Các sinh vật thường là vi khuẩn (có thể tạo ra màng biofilm trên bề mặt niêm mạc) nhưng có thể là nấm. Nhiều vi khuẩn đã được liên quan, bao gồm vi khuẩn Gram âm và các vi khuẩn kị khí vùng miệng họng nhiễm nhiều chủng vi khuẩn là phổ biến. Trong một vài trường hợp, viêm xoang mãn tính là thứ phát từ nhiễm trùng răng. Nhiễm nấm (Aspergillus,Sporothrix,Pseudallescheria) có thể là mãn tính và có xu hướng tấn công các bệnh nhân cao tuổi và suy giảm miễn dịch.

Viêm xoang nấm dị ứng là một dạng viêm xoang mạn tính có đặc trưng là ngạt mũi, chảy dịch mũi nhày và thường là polyp mũi. Đó là một phản ứng dị ứng với sự hiện diện của nấm tại chỗ, thường là Aspergillus, và không phải là do nhiễm trùng xâm lấn.

Viêm xoang nấm xâm lấn Viêm xoang xâm lấn ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng v&#249… đọc thêm

*

là một nhiễm nấm nặng, đôi khi gây tử vong, ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, thường do các loài Aspergillus hoặc là Mucor.

Các yếu tố nguy cơ thường gặp của viêm xoang bao gồm các yếu tố làm tắc nghẽn dẫn lưu xoang thông thường (ví dụ như viêm mũi dị ứng, polyps mũi, sonde mũi dạ dày hoặc đặt nội khí quản qua mũi) và các tình trạng suy giảm miễn dịch (ví dụ như tiểu đường, nhiễm HIV). Các yếu tố khác bao gồm thời gian nằm viện kéo dài, bỏng nặng, bệnh xơ hóa nang, và rối loạn chức năng lông chuyển.

Trong bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên (URI), màng nhầy ở mũi bị sưng lên làm tắc nghẽn lỗ thông của xoang cạnh mũi và oxy trong xoang được hấp thụ vào các mạch máu của màng nhầy. Việc này dẫn tới áp suất âm trong xoang (viêm xoang chân không) là khởi đầu của tình trạng viêm xoang. Nếu chân không được duy trì, niêm dịch từ màng nhầy phát triển và đầy xoang; các niêm dịch đóng vai như là một môi trường cho vi khuẩn xâm nhập vào xoang qua lỗ thông xoang hoặc thông qua một tế bào lan rộng lan tỏa hoặc gây ra cục máu đông trong lớp liên kết của niêm mạc. Sự xuất hiện của huyết thanh và bạch cầu để chống lại các nhiễm trùng, và gây đau do áp lực dương phát triển trong xoang tắc nghẽn. Niêm mạc trở nên sung huyết và phù nề.

Các biến chứng chính của viêm xoang là sự lan truyền của vi khuẩn ở tại chỗ, gây ra viêm tấy quanh ổ mắt hoặc lan vào ổ mắt, viêm tắc tĩnh mạch xoang hang, áp xe ngoài màng cứng hoặc áp xe não.

Viêm xoang cấp tính và mạn tính gây ra các triệu chứng và dấu hiệu tương tự, bao gồm chảy mũi mủ, nhức và đau ở mặt, ngạt mũi và tắc nghẽn, giảm ngửi, hởi thở hôi và ho (đặc biệt là vào ban đêm). Thông thường cơn đau nghiêm trọng hơn trong viêm xoang cấp tính. Vùng xung quanh xoang bị ảnh hưởng có thể đau, sưng và đỏ.

Viêm xoang sàng gây ra đau đằng sau và giữa hai mắt, đau đầu trán thường được mô tả như là sự phân chia, viêm tấy quanh ổ mắt, và chảy nước mắt.

Niêm mạc mũi đỏ và phù nề; có thể có hiện tượng chảy mủ mũi màu vàng hoặc xanh. Mủ loãng hoặc mủ đặc chảy ra ở khe giữa với xoang hàm, xoang sàng trước, hoặc xoang trán bị viêm, và mủ chảy phía trong của cuốn mũi giữa khi viêm xoang sàng sau hoặc xoang bướm.

Các triệu chứng của biến chứng bao gồm viêm tấy quanh ổ mắt, sưng nề đỏ, lồi mắt, liệt vận nhãn, nhầm lẫn hoặc giảm mức độ nhận thức, và nhức đầu dữ dội.

Chẩn đoán

Đánh giá lâm sàng

Đôi khi cần đến CT

Nhiễm trùng xoang thường được chẩn đoán bằng lâm sàng. Chẩn đoán hình ảnh không được chỉ định trong viêm xoang cấp tính, trừ khi có những phát hiện gợi ý các biến chứng, trong trường hợp đó CT được thực hiện. Trong viêm xoang mạn tính, CT được thực hiện thường xuyên hơn, và x-quang răng có thể được yêu cầu trong viêm xoang hàm trên mạn tính để loại trừ áp xe quanh răng.

Nuôi cấy vi khuẩn ít khi được thực hiện vì cấy vi khuẩn chính xác đòi hỏi một mẫu thu được bằng nội soi xoang hoặc xuyên qua xoang; cấy vi khuẩn phần dịch mủ chảy qua mũi là không đủ. Cấy vi khuẩn thường chỉ được thực hiện khi điều trị kháng sinh bằng kinh nghiệm không thành công và ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và một số nhiễm khuẩn bệnh viên gây ra viêm xoang.

Viêm xoang ở trẻ em ban đầu khó phân biệt được với nhiễm trùng đường hô hấp trên. Viêm xoang do vi khuẩn nghĩ tới khi chảy mũi mủ kéo dài trong> 10 ngày cùng với sự mệt mỏi và ho. Sốt thường không phổ biến. Có thể đau nhức vùng mặt hoặc khó chịu. Khám mũi thấy chảy mủ và phải loại trừ dị vật mũi.

Chẩn đoán viêm xoang cấp tính ở trẻ em là dựa vào lâm sàng. CT tránh được vì lo lắng về việc tiếp xúc với tia X trừ khi có dấu hiệu của các biến chứng mắt hoặc nội sọ (ví dụ như viêm tấy quanh ổ mắt, mất thị lực, nhìn đôi, hoặc liệt vận nhãn), có viêm xoang mãn tính không đáp ứng với điều trị, hoặc có mối lo ngại ung thư vòm họng (ví dụ, dựa vào tắc nghẽn mũi một bên, đau, chảy máu mũi, sưng mặt, hoặc, đặc biệt liên quan, thị lực giảm). Sưng vùng quanh ổ mắt ở trẻ sơ sinh cần đánh giá nhanh viêm tấy quanh ổ mắt Viêm tổ chức hốc mắt và viêm tổ chức trước vách Viêm tổ chức trước vách (viêm quanh hốc mắt) là nhiễm trùng của mí mắt và vùng da xung quanh trước vách. Viêm tổ chức hốc mắt là nhiễm trùng m&#244… đọc thêm

*

và có thể can thiệp phẫu thuật để ngăn ngừa thị lực suy yếu và nhiễm trùng nội sọ.

Điều trị

Các biện pháp tại chỗ để tăng cường dẫn lưu mủ (ví dụ, khí dung, thuốc co mạch tại chỗ)

Đôi khi thuốc kháng sinh (ví dụ, amoxicillin/clavulanate, doxycycline)

Trong viêm xoang cấp tính, việc cải thiện dẫn lưu xoang và kiểm soát nhiễm trùng là mục đích của điều trị. Khí dung; rửa xoang bị viêm bằng dung dịch nóng ẩm; đồ ăn nóng giúp giảm bớt sự tắc nghẽn mũi và thúc đẩy dẫn lưu.

Thuốc co mạch tại chỗ, ví dụ phenylephrine 0,25% xịt x 3 giờ hoặc oxymetazolin mỗi 8 đến 12 giờ, có hiệu quả nhưng nên dùng tối đa 5 ngày hoặc trong chu kỳ lặp lại 3 ngày dùng và 3 ngày ngừng cho đến khi viêm xoang được giải quyết. Thuốc co mạch hệ thống, như pseudoephedrine 30 mg uống (đối với người lớn) từ 4 đến 6 giờ, hiệu quả thấp hơn.

Nước muối rửa mũi có thể giúp các triệu chứng giảm nhẹ nhưng rườm rà và không thoải mái, và bệnh nhân yêu cầu được chỉ dẫn để thực hiện đúng cách; nó có thể tốt hơn cho bệnh nhân viêm xoang tái phát, những người có nhiều khả năng làm chủ (và chịu đựng) kỹ thuật này.

Xem thêm:

Xịt mũi xịt Corticosteroid có thể giúp làm giảm các triệu chứng nhưng thường mất ít nhất 10 ngày để có hiệu quả.

Mặc dù hầu hết các trường hợp viêm xoang cấp tính do virus và tự khỏi, trước đây nhiều bệnh nhân được cho thuốc kháng sinh vì khó phân biệt lâm sàng do virus hay vi khuẩn. Tuy nhiên, mối lo ngại hiện nay về việc tạo ra các vi khuẩn kháng kháng sinh đã dẫn đến việc sử dụng các kháng sinh có chọn lọc hơn. Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ đề xuất các đặc điểm sau đây giúp xác định những bệnh nhân nên bắt đầu dùng kháng sinh:

Các triệu chứng xoang xấu đi sau khi cải thiện ban đầu từ một viêm đường hô hấp trên điển hình của virus (” ốm 2 lần” hoặc 2 pha mắc bệnh)

Bởi vì nhiều vi khuẩn gây bệnh có khả năng đề kháng với các thuốc đã sử dụng trước đây, amoxicillin/clavulanate 875 mg uống mỗi 12 giờ (25 mg/kg sau 12 giờ ở trẻ em) là loại thuốc đầu tay hiện nay. Bệnh nhân có nguy cơ kháng thuốc kháng sinh được cho liều cao hơn 2 g sau 12 giờ (45 mg/kg sau 12 giờ ở trẻ em). Những bệnh nhân có nguy cơ kháng thuốc bao gồm trẻ dưới 2 tuổi hoặc trên 65 tuổi, những người đã được điều trị kháng sinh trong tháng trước, những người đã được nhập viện trong vòng 5 ngày qua và những người bị suy giảm miễn dịch.

Người lớn bị dị ứng penicillin có thể dùng doxycycline hoặc fluoroquinolone hô hấp (như levofloxacin, moxifloxacin). Trẻ bị dị ứng penicillin có thể dùng levofloxacin, hoặc clindamycin cộng với cephalosporin thế hệ 3 (cefixime hoặc cefpodoxime).

Nếu có sự cải thiện trong vòng 3 đến 5 ngày, thuốc vẫn tiếp tục. Người lớn không có các yếu tố nguy cơ đề kháng được điều trị tổng cộng từ 5 đến 7 ngày; những người lớn có nguy cơ được điều trị trong 7 đến 10 ngày. Trẻ em được điều trị từ 10 đến 14 ngày. Nếu không có sự cải thiện trong 3 đến 5 ngày, một loại thuốc khác được sử dụng. Macrolide, trimethoprim/sulfamethoxazole, và đơn trị liệu với cephalosporin không còn được khuyến cáo vì tính kháng kháng sinh. Cần phẫu thuật cấp cứu nếu có thị lực bị mất hoặc có khả năng mất thị lực.

*

Được chuyển thể từ Chow AW, Benninger MS, Brook I, et al: IDSA clinical practice guideline for acute bacterial rhinosinusitis in children and adults. Clinical Infectious Diseases 54 (8):1041–5 (2012).

Trong trường hợp viêm xoang mạn tính ở trẻ em hoặc người lớn, các kháng sinh tương tự được sử dụng, nhưng điều trị được cho trong 4 đến 6 tuần. Độ nhạy của các mầm bệnh phân lập từ mủ xoang và đáp ứng của bệnh nhân đối với điều trị hướng dẫn các liệu pháp điều trị tiếp theo.

Viêm xoang không đáp ứng với điều trị kháng sinh có thể cần phẫu thuật (mở xoang hàm, phẫu thuật nạo xoang sàng, hoặc xoang bướm) để cải thiện thông khí và dẫn lưu và loại bỏ các mủ đặc trong xoang, biểu mô viêm, và niêm mạc quá phát. Các phẫu thuật này thường được thực hiện bằng phẫu thuật nội soi mũi xoang. Viêm xoang trán mạn tính có thể được điều trị hoặc với sự cốt hóa xoang trán trước hoặc dùng nội soi trong những bệnh nhân được chọn. Việc sử dụng định vị nội soi mũi xoang với các tổn thương tại xoang và ngăn ngừa thương tổn xung quanh các cấu trúc lân cận (như mắt và não) đã trở nên phổ biến. Sự tắc nghẽn mũi góp phần vào việc dẫn lưu kém cũng đòi hỏi phẫu thuật.

Những điểm chính

Viêm xoang cấp tính ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch là do virut.

Các bệnh nhân suy giảm miễn dịch có nguy cơ nhiễm nấm hoặc vi khuẩn xâm nhập mạnh hơn.

Chẩn đoán lâm sàng; CT và các cấy vi khuẩn (thu được qua nội soi hoặc thông qua thủ thuật xoang) được thực hiện chủ yếu cho các trường hợp mãn tính, dai dẳng hoặc không điển hình.

Kháng sinh có thể chờ trong khi chờ điều trị triệu chứng, thời gian phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và thời gian của các triệu chứng.

Thuốc kháng sinh dòng đầu tiên là amoxicillin/clavulanate, với doxycycline hoặc các fluoroquinolones hô hấp như các chất thay thế.

Viêm xoang có thể xảy ra ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do tiểu đường được kiểm soát kém, giảm bạch cầu hoặc nhiễm HIV.

Nhiễm nấm mucor Mucormycosis Mucormycosis đề cập đến nhiễm trùng do các sinh vật nấm đa dạng gây ra theo thứ tự Mucorales, bao gồm cả những loài trong các chiRhizopus, Rhizomucor,… đọc thêm

*

(nấm zygo, đôi khi còn gọi là nấm phyco) là một bệnh nấm do nấm mucorales, bao gồm các loài Mucor,Absidia, và Rhizopus. Bệnh nấm này có thể phát triển ở những bệnh nhân tiểu đường kiểm soát kém. Nó được đặc trưng bởi các tổ chức nấm màu đen, mô chết trong khoang mũi và các dấu hiệu thần kinh thứ phát từ huyết khối động mạch trong hệ thống động mạch cảnh.

Chẩn đoán được dựa trên mô bệnh học của sợi nấm trong các tổ chức được lấy ra. Việc sinh thiết ngay tổ chức trong mũi cho mô bệnh học và nuôi cấy được thực hiện.

Điều trị đòi hỏi phải kiểm soát các tình trạng cơ bản (như kiểm soát đường máu), phẫu thuật cắt bỏ các mô hoại tử, và điều trị amphotericin B đường tĩnh mạch toàn thân.

Xem thêm:

Aspergillus và Candida spp có thể gây nấm xoang của bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch với điều trị bằng các thuốc gây độc tế bào hoặc các bệnh suy giảm miễn dịch như bệnh bạch cầu Tổng quan về Bệnh bạch cầu Bệnh bạch cầu là một tình trạng ác tính liên quan đến việc sản xuất quá nhiều bạch cầu chưa trưởng thành hoặc bất thường, cuối cùng sẽ ngăn chặn việc sản sinh ra các tế bào máu bình thường và… đọc thêm , u lymphoma Tổng quan về u lympho U lympho là một nhóm bệnh không đồng nhất gồm nhiều loại u khác nhau phát sinh từ hệ thống lưới nội mô và hệ bạch huyết. Các loại chính là u lympho Hodgkin và u lympho không Hodgkin (NHL- xem… đọc thêm , u đa tủy xương Multiple Myeloma Đa u tủy xương là ung thư của tương bào mà sản xuất ra các globulin miễn dịch đơn dòng, xâm lấn và phá hủy xương lân cận. Các biểu hiện thường… đọc thêm

*

và bệnh AIDS Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau (HIV-1 và HIV-2) chúng phá hủy tế bào lympho CD4… đọc thêm . Nhiễm trùng này có thể xuất hiện dưới dạng các polyp ở mũi cũng như niêm mạc dày; lấy mô làm giải phẫu bệnh cần thiết để chẩn đoán.

Phẫu thuật xoang tối đa và liệu pháp tiêm tĩnh mạch toàn thân amphotericin B được sử dụng để kiểm soát các nhiễm trùng nguy hiểm tính mạng. Nếu mucormycosis được loại trừ, có thể dùng voriconazole, có hoặc không có và echinocandin (ví dụ như caspofungin, micafungin, anidulafungin), thay vì amphotericin.

*

Bản quyền © 2022 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *